Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Thời bao cấp.

   Hà Nội bắt đầu vào tiết cuối Thu. Tiết độ đẹp nhất trong năm. Nắng không còn gay gắt nhưng lại chưa vào độ hanh hao, và màu nắng rất trong. Cũng không còn những oi nồng của cái nóng đến ẩm ướt khó chịu nữa. Đã có thể với áo sơ mi dài tay để ra phố mà không còn những mảng ướt lưng. Tối đã se se trong hương sữa thảng bay trên những vòm cao trên phố. Tôi nhớ gốc sữa đầu cổng nhà, nơi anh em tôi hay bày cái bàn rượu nhỏ, rải đầy xung quanh những trắng xóa mảnh sữa rụng. Những hình ảnh cứ trôi nổi, trôi nổi và lại quanh về Hà Nội một thuở chưa xa lắm, nhưng nghèo và gắn với những câu thơ bình dân... Trong những câu chuyện với bạn bè, với anh em, thỉnh thoảng tôi có gợi nhắc về Hà Nội những tháng năm đó, tháng năm của thời bao cấp. Rất nhiều bạn bè tôi không hình dung ra những điều đó. Tôi muốn tặng bạn tôi về những hình ảnh của một thời đã qua, với những ký ức vụn vặt mà tôi vẫn lưu giữ.




   Hà Nội mở đầu xóa bỏ cơ chế gọi là '' quan liêu bao cấp '' bắt đầu từ năm 1986. Lúc đó tôi bắt đầu vào lớp 10. Cho đến những năm 1990, khi chúng tôi vào đại học rồi, vẫn còn khốn khó về nhiều thứ, nhất là hàng hóa. Chỉ sau hội nghị Thành Đô năm 1991 giữa Hà Nội và Bắc Kinh về bình thường hóa quan hệ hai nước, với ý muốn kết nối liên minh ý thức hệ cộng sản giữa hai anh láng giềng với nhau, trong bối cảnh thành trì cách mạng và cộng sản thế giới là Liên Xô cũ sụp đổ, thì hàng hóa bắt đầu phong phú và ồ ạt từ biên giới phía Bắc về Hà Nội.

   Hà Nội thời bao cấp, bắt đầu từ những năm 1960. Khi nhìn những bức ảnh cũ của ông nội, ông ngoại tôi những năm 1954 trở về trước, tôi đã có những thắc mắc. Bởi với thế hệ như bố tôi, đã được dạy ra đường là phải cho áo vào trong quần, vậy sao khi tôi lớn lên và bắt đầu có ý thức nhận biết, là đã va đập với những xô bồ ngay ngoài phố. Người lớn kể lại, Hà Nội ngày xưa không như bây giờ. Thời nào cũng có những mặt trái như trộm cắp, lưu manh hay đàng điếm, ăn chơi... cả, nhưng không xô bồ, lộ liễu, ồn ào và thành ra bất chấp xã hội như bây giờ. Ngày trước, bà tôi muốn mua hàng khi có hàng rong gánh qua cửa nhà, thì phải mang cả gánh hàng đó vào trong nhà rồi mới xem hàng và mà cả, chứ ngồi xổm ngay vỉa hè mà bới lựa thì chết với các cụ. Xưng hô thì thân thiết với nhau lắm mới là mày tao, mà chỉ trong nhà hay giữa một nhóm bạn, nhưng ở lớp học thì buộc phải xưng hô là anh - tôi. Thưa thày cũng phải nói: Thưa thày, anh X bắt nạt con...


   Thiếu nữ Hà Nội ra đường là phải áo khăn tề chỉnh. Những bộ quần áo mặc ở nhà thì chỉ được phép mặc ở nhà, không được phép mặc ra phố. Các hàng quán bán vỉa hè cũng ít, chủ yếu là các gánh phở rong bán đêm. Các hàng quà cũng có gánh bán dạo, nhưng ít xảy ra mua bán trên phố. Xỏ dép xăng-đan là phải cài quai hậu, đi giầy là phải có tất đàng hoàng... Xã hội thời đó dù đang nhá nhem chuyển giao giữa Nho học với Âu hóa, nhưng vẫn giữ những cốt cách trong ứng xử thanh lịch. Tầng lớp trung lưu thì vợ chồng xưng hô với nhau là cậu - mợ, một cách gọi cho sang thời bấy giờ. Thập thành là một thuật ngữ chỉ mức độ ăn chơi có hạng rồi: đánh đĩ thập thành là một từ rất nặng nề chỉ giới ăn sương hoặc theo quan niệm bây giờ, là các hot girl. Ông đấy thì ăn chơi thập thành !, tức là người được nhắc đến thạo đủ nghề ăn chơi, bây giờ gọi là playboy vậy.

   Sau 1954 đến đầu những năm 1960 là quãng thời gian còn rơi rớt được những thanh xưa lịch cũ. Khi cả nước xây dựng miền Bắc xây dựng XHCN chi viện cho miền Nam ruột thịt thì chính thức thời kỳ bao cấp và đói kém bắt đầu. Công nghiệp sản xuất thì chủ yếu tập trung ở khu gọi là Cao - Xà - Lá ở mạn Thanh Xuân. Đó là một cụm các nhà máy do Trung Quốc giúp xây dựng, là: Nhà máy cao su Sao Vàng (cao), nhà máy sản xuất xà phòng (xà), và nhà máy thuốc lá Thăng Long (lá), gần đó là nhà máy công cụ số 1, tiếp quản từ thời Pháp, gần ngã tư Sở. Những sản phẩm làm ra không đáp ứng được nhu cầu xã hội nên thành khan hiếm, mà một phần lớn lại phải dành để chi viện cho chiến trường miền Nam. Chính sách quản lý xã hội rập khuôn 100% mô hình anh cả Đỏ bên Liên Xô. Không đáp ứng được nhu cầu xã hội, tiền tệ thiếu, hàng hóa thiếu bởi ''sản xuất tập trung theo kế hoạch hóa '' nên người ta đề ra chính sách tem phiếu.

   Cái mô hình tem phiếu với sổ gạo này thực sự là sự mới mẻ với nhiều bạn bè tôi khi nghe kể lại. Chính tôi cũng ngạc nhiên vì tưởng rằng, ở thành phố người ta làm như thế thì ở nông thôn hay các tỉnh thành khác người ta cũng làm như vậy. Bởi vì không đủ tiền để trả lương, nên người ta trả bằng tem và phiếu để mua các thứ vật dụng thiết yếu và thực phẩm. Họ định ra cán bộ thì chia loại A, B, C, D và E là công nhân, nông dân và nhân dân lao động. Khi mua hàng, các loại tem, phiếu này được cắt ô. Tiêu chuẩn cán bộ nào có phiếu đó, mỗi cán bộ trung bình 13,5kg gạo/tháng. Những năm đầu đại học của chúng tôi, học bổng cũng quy ra gạo là 13kg/tháng.


   Cái bảng trên là bảng quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn cán bộ. Bộ trưởng và tương đương thì bìa A (tức là tem phiếu loại A), thứ trưởng hay tương đương thì bìa B, cục trưởng hay tương đương thì bìa C, trưởng phòng thì bìa D. Bìa E là dành cho nhân dân và cán bộ cấp thấp... Tất cả được chỉ định theo nhân suất và định mức, tiêu chuẩn. Thịt bao nhiêu kg, gạo bao nhiêu kg, rau, đậu, củ, quả...bao nhiêu kg. Dầu, muối, mắm, chất đốt (bao gồm dầu, củi, than) cũng được định suất hết và gom vào phiếu để mua theo tiêu chuẩn. Tiền mặt cực kỳ khan hiếm. Hàng hóa khan hiếm nên bất cứ một vật dụng nào như cái quạt, bộ bàn ghế, nồi niêu xoong chảo...đều thành tài sản hết.





   Mỗi cán bộ được cấp những phiếu vải như thế này để ra cửa hàng bách hóa mua. Ô phiếu lớn nhất là ô 1m để may quần hay áo, còn lại thì chắc các bạn tự hiểu, để may underwear :))


   Phụ tùng xe đạp cũng có phiếu. Nhà máy xe đạp Thống Nhất không sản xuất đủ được sản lượng, nên thường thì những mặt hàng này sẽ được phân phối. Tức là một năm một lần, cán bộ cung tiêu - đời sống của cơ quan sẽ đi liên hệ với nhà máy để mua hàng về phân phối cho cán bộ. Đương nhiên sẽ không đủ cho mọi người, và sẽ phải tổ chức rút thăm. Người được bộ xích thì thiếu cái líp, người có bộ vành thì không có săm, lốp, đại loại thế nên đành phải để đợt sau rút tiếp hoặc thương lượng giữa cán bộ với nhau để nhường suất...


   Một ô tem được mậu dịch viên cắt ra sau khi đã mua hàng.


   Thêm một ô nữa...


   Và đây là một tờ phiếu tổng thể các ô để mua xăng xe máy:


  Phiếu mua chất đốt, bao gồm cả than, củi, dầu hỏa..


   Tờ phiếu này ghi rõ, mất không cấp lại:

   Đây nữa:

   Những tờ tem phiếu này có giá trị quy đổi ra thực phẩm hay vật dụng tiêu dùng thiết yếu, với nhu cầu chỉ đủ cho sự tồn tại. Vải cũng chỉ đủ may năm 2 bộ là cùng. Nên thiếu tiền mặt thì thường là người ta phải mang các loại tem phiếu này ra bán ở ngoài cho con phe. Con phe là một danh từ chỉ những người buôn bán ngoài quốc doanh. Và thường thì những con phe sẽ mua với giá thấp hơn giá trị thực của hàng hóa ghi trong tem, phiếu. Sau đó, họ sẽ dùng những tem, phiếu này mua lại hàng hóa trong cửa hàng thực phẩm hoặc bách hóa, sau đó bán ra chợ đen ăn chênh lệch. Và có một sự móc nối giữa những con phe và các mậu dịch viên. Vì với một phiếu thịt chẳng hạn, có tổng trọng lượng được mua của cả gia đình sẽ là 4kg thịt/tháng, thì con phe sau khi mua rẻ tem, phiếu, sẽ được mậu dịch viên bán cho chỗ thịt ngon hoặc chỗ vải tốt. Bởi phiếu thịt hay vải không ghi rõ thịt là loại gì, nạc hay mỡ, đùi hay mông, vai hay sấn và tương tự, vải cũng thế. Có khi trong kho còn vải phin may áo thì họ nói hết với cán bộ, và nói còn vải may quần bộ đội thôi chẳng hạn, thì cũng phải chịu chứ thắc mắc với ai ??? Mua thì mua, không mua thì lướt cho nước nó trong, khẩn trương !!!
   Cho nên thời đó, chơi được với một bà mậu dịch viên nào thì quá bằng chơi được với bộ trưởng. Nói không ngoa. Con đói, chồng thèm thịt mà ra cửa hàng thực phẩm, cái mặt lạnh tanh của chị mậu dịch viên nghếch lên thõng thượt: Hết thịt, còn mỡ với bì bóng bạc nhạc thôi, lấy thì đưa phiếu đây cắt !!! thì tội lắm. Chả hiếm gì cảnh mẹ tôi dắt tôi ra cửa hàng, sau thảo luận với mụ phe, nếu mụ mua được cân thịt thì mẹ tôi mất cho mụ một lạng. Vì bán phiếu sẽ thiệt đủ đường. Một cân thịt theo phiếu chỉ được trả bằng tiền với giá trị 7 lạng, và đồng tiền đấy ra mua thịt chợ đen thì chỉ mua được 5 lạng, cũng với kiểu mua thì mua không mua đừng ám, vớ vẩn họ chửi cho tát nước vào mặt. Nhưng cũng không dám kỳ nèo bật lại mậu dịch viên, vì nếu bị nhớ mặt thì vĩnh biệt chuyện mua hàng tử tế ở đó luôn.


   Nhà nào có trẻ em thì cũng có phiếu đường hay phiếu sữa cho trẻ:

   Hoặc với người đẻ cũng có phiếu bồi dưỡng:

   Không thể không nhắc đến một thứ tối quan trọng của thời này, đó là cái sổ gạo. Mất sổ hộ khẩu thì còn chưa chết đói, chứ mất sổ gạo thì toi là cái chắc. Giữ sổ gạo còn hơn cả giữ con ngươi mắt. Toàn bộ gạo ăn của cả nhà được dính vào cái sổ đó của tháng. Một tháng mấy chục cân gạo, mất sổ thì tiền đâu mua gạo chợ đen vào bù ??? Nên ngày đó, mặt ai mà thất thểu thì y như rằng được gắn với câu: Mặt như mất sổ gạo.


   Thời đó, cho đến tận năm 1988, mỗi sáng tôi đi học, vẫn còn xếp hàng để mua gạo. Nhưng phải nói rằng, tính tự giác hồi đó còn cao. Người ta chỉ kê hòn gạch, buộc tờ giấy ghi tên hoặc cái bao tải vo tròn ghi tên là cứ xếp hàng được. Tôi đi học sớm, ngang qua cửa hàng gạo, xếp cái bao tải vào là vô tư đi tiếp. Chứ nếu bây giờ, có khi họ ném cả gạch lẫn bao tải xuống hồ rồi. Vì thế, từ xếp gạch là thành một từ lóng cho việc xếp hàng hoặc có sự xếp đặt nào đó. Ví dụ: một cái quy hoạch quận hay phường chẳng hạn, thì cái ao đó, cái hồ đó sẽ thành cái gì thì đương nhiên đã có các đại gia xếp gạch với lãnh đạo rồi.

   Điểm qua như thế về chế độ tem phiếu, sổ gạo của thời bao cấp. Với nền kinh tế tập trung kế hoạch hóa, tức là tập trung sản xuất vào các hợp tác xã, từ lúa má đến chăn nuôi, gia tăng ruộng màu ở nông thôn để cung cấp cho thành thị thì thành phố còn đói và thiếu đến vậy, đương nhiên nông thôn đói là đương nhiên. Kế hoạch hóa là họ đề ra kế hoạch 5 năm 1 lần cho tất cả các phương thức sản xuất và kinh doanh, thương mại với sự tập trung tất cả tư liệu sản xuất vào một đầu mối là Nhà nước.

   Trở lại một chút với các loại bìa mua hàng và các cửa hàng bách hóa, thực phẩm. Bìa A, là các cán bộ cao cấp được mua ở cửa hàng ở phố Tôn Đản (quận Hoàn Kiếm), bìa B, C được mua ở cửa hàng phố Nhà Thờ (quận Hoàn Kiếm) và Vân Hồ (quận Hai Bà Trưng). Còn các bìa khác, mua rải rác ở các quận. Và cũng chỉ có ở Tôn Đản hay Nhà Thờ mới có các mặt hàng xa xỉ phẩm cao cấp như đường trắng, sữa, bánh biscuit hay bơ và các loại bánh kẹo có chất lượng. Vì thế, dân có câu ca là: Tôn Đản chợ của vua quan, Nhà Thờ chợ của trung gian nịnh thần. Đồng Xuân chợ của thương nhân, vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng !!!

   Bìa C của bố tôi và phiếu xăng của cái xe máy 67 mang từ Sài Gòn ra sau tiếp quản, cũng thường là được ra chợ đen. Toàn bộ thực phẩm của nhà tôi trông vào bìa E của mẹ tôi. Cái bìa C của ông trung gian nịnh thần được mua hàng cao cấp nên bán được giá hơn nhiều, phiếu xăng cũng bán, xe đắp chiếu để quy đổi ra độ đạm tối thiểu cho gia đình. Cũng vì cái xe năm thì mười họa mới được nổ máy nên cứ trục trặc suốt, bởi xăng đâu mà chạy, nên cuối năm 1986, bố tôi đành gọi người vào bán với giá gần 3 chỉ vàng. Bán nhưng kệ, không báo cáo cơ quan nên phiếu xăng cứ năm lĩnh đôi lần, lại góp vào công cuộc điều chỉnh suy dinh dưỡng cho chị em tôi.

   
                                                            ( Xe 67, thời cuối bao cấp)

   Hàng hóa khan hiếm thể hiện ngay tại các bức ảnh các cửa hàng bách hóa thời đó:




   Ngày Tết người ta xếp hàng đây:





   Bia hơi cũng bán kiểu phân phối và kèm, gọi là bia kèm lạc. Mua 1 cốc bia phải kèm theo mấy gói lạc, chứ họ không bán bia không:


   Hàng Tết bia cũng phải kèm thức ăn:


   Hồi đó, có loại xà phòng gọi là xà phòng 72. Nó cứng như cục gạch và giặt thì mài đau tay ra được tý bọt phều phào đến tội nghiệp. Nhưng ở vào thời đó, méo mó có hơn không. Sau khi cải cách được mấy năm từ 1986, có loại xà phòng giặt mới, như một kỷ nguyên bùng lên thay thế cho kỷ nguyên 72 là loại xà phòng Dạ Lan. Dù cũng còn lổn nhổn cục nọ cục kia và có cục cũng hóa thạch khi để lâu lâu, nhưng thế đã là hạnh phúc mãn nguyện lắm rồi vì nó còn đầy bọt và cảm giác trơn trượt chính thống của NaOH:


   Hồi đó, chỉ có mỗi lần các chiến cạ chiến hừu của bố tôi từ Sài Gòn ra chơi hay công tác thì nhà mới có các loại thuốc lá đầu lọc hạng sang như: Craven A, Capstan, Dulhill, 555... còn thì chủ yếu bố tôi hút thuốc cuộn, loại 1 đồng 10 điếu. Những loại thuốc lá phổ biến hồi đó là Sông Cầu, Du lịch, Tam Đảo, Sa Pa, Bông Sen.., nên hồi đó có câu: Sông Cầu mở đầu câu chuyện, Du lịch thì dịch vào đây, Sa Pa mặc cha chúng mày... là để chỉ những câu chuyện thưa gửi. Đến nhà sếp xin xỏ mà mang Sa Pa với Tam Đảo ra mời thì coi như nhận được cái phủi đít quần ngay. Chí ít cũng phải là Du Lịch, vì cũng đã là loại thuốc có đầu lọc, không thì cũng phải Bông Sen, chứ thuốc lá ngoại là rất đắt. Một bao thuốc 555 có thể có giá trị quy đổi cho một bữa đạm ra trò của cả nhà rồi.


   Thời đó, trẻ con chúng tôi hay chơi trò gọi là đô la. Những vỏ bao thuốc lá được gom lại, gấp thành những hình tam giác để thay cho tiền tệ. Giá trị thuốc càng cao thì vỏ thuốc càng có giá. Thuốc lá ngoại thì không cần gấp, nếu để nguyên vỏ thì còn cao hơn nữa. Tài sản của đứa nào được coi là tỷ phú khi nó có nhiều loại vỏ bao và nhiều loại cao cấp. Chơi trò ăn đô la bằng đánh đáo. Cho đô la vào một vòng tròn, rồi dùng cái đáo làm bằng các mảnh sắt nhặt ngoài công trường xây dựng mà chọi, chọi được nhiều đô la ra ngoài vòng thì càng thắng to. Hoặc chơi tú lơ khơ ăn đô la. Đủ trò cả. Mua sách cũ của nhau cũng có thể mang tiền tệ đó ra quy đổi. Thích một đồ chơi nào cũng có thể dàn xếp bằng đô la được. Nên mỗi lần các chiến hừu của cụ bô ra Hà Nội, là tôi dặn đi dặn lại phải giữ nguyên vỏ bao thuốc cho tôi, hút xong không được vo nhàu mà vứt đi. Khổ cho các ông, đi đâu hút thuốc xong cũng phải nhớ để mang những cái vỏ không về cho ông chọi con.

   Ngày đó, những vật dụng luôn được bảo quản. Bố tôi mang từ Sài Gòn ra mấy chục cái cốc giấy, thứ cốc uống một lần rồi bỏ, có hẳn quai cầm. Quai được ép vào thành cốc rồi cứ xếp dọc chồng nhau. Sài Gòn họ dùng rồi bỏ, vậy mà nhà tôi không dám mang ra dùng. Khi nào có khách, thiếu cốc lại mang ra dùng mấy chiếc, nhưng sau phải rửa cẩn thận để cất đi dùng lại. Sự thiếu thốn hiển hiện đến từng chi tiết. Hầu như không thứ đồ nào được bỏ đi. Hộp sắt tây cũng giữ lại. Những thứ nào hỏng mới bỏ và được bán đồng nát. Nhà tôi chuyển nhà năm 2005. Năm đó tôi dặn cả nhà, về nhà mới bỏ hết đồ cũ vì tôi sẽ mua mới tất cả. Nhưng rồi vẫn có những thứ bố mẹ tôi không chịu bỏ. Khi lục đống đồ ông bà mang về, còn nguyên hai chục cái cốc giấy từ ngày bố tôi mang từ Sài Gòn ra năm 1976. Tôi lặng lẽ xếp hai chồng cốc đó vào một cái hộp để khỏi bị bẹp. Tâm lý thiếu thốn đã trở thành một thuộc tính của cất giữ. Trong truyện ngắn Tình yêu cuộc sống của Jack London, kể về những người đào vàng ở nước Mỹ, có chi tiết sau khi được các thủy thủ cứu sống, nhân vật chính đã chất đầy dưới nệm giường toàn bánh biscuit. Nhân vật đã trải qua cuộc chiến đấu sinh tồn trong cái đói, cái lạnh và cả chiến đấu với sói đói. Sự đói đã ám ảnh anh ta cho đến khi anh ta đã được hoàn toàn cứu thoát.



   Cái thời thiếu thốn. Mỗi phố có một cái máy nước công cộng. Tùy từng tuyến ống, nước chảy mạnh hay yếu khác nhau. Mọi sinh hoạt tắm gội của đàn ông và trẻ em hay giặt giũ cho đàn bà đều diễn ra ở cái máy nước đó. Người ta bê hàng chậu quần áo ra vò, giặt và cùng với nó là những ngồi lê đôi mách. Hà Nội chấm dứt thời kỳ thanh lịch trong sinh hoạt cộng đồng. Khốn khó vật chất vây bủa, điều kiện sinh hoạt khó khăn đã đẩy con người ta trượt ra khỏi những khuôn mẫu đã được định hình. Ngày đó, ngăn sông cấm chợ nên buôn bán từ vùng này qua vùng khác chỉ là buôn lậu. Mọi giao thương đều do Nhà nước nắm. Thương nghiệp dân doanh hầu như không có. Nhà nước nắm cả nội thương và ngoại thương. Ai ở Hà Nội đều biết ông Vua lốp Nguyễn Văn Chẩn ở những năm 1980. Ông Chẩn quê Thanh Hóa, ra Hà Nội làm thuê cho chủ sản xuất cao su từ thời Pháp. Sau một thời gian nắm được nghề, ở quê còn mảnh ao, ông bán để quyết chí làm giàu. Lốp ông Chẩn bền mà chắc, nhất là cánh xe thồ cực khoái dùng lốp của ông. Nhưng hồi đó cái gì chả hợp tác, ông không vào hợp tác là lập tức bị sờ gáy, ba bốn phen tịch thu tài sản và tù đày. Lần cuối là năm 1983, ông bị bắt và hết cửa làm. Sau sửa sai thì nghề lốp của ông cũng đi theo thời mở cửa.

   Người mở hàng phở cũng khốn khổ với bên thị trường. Họ hạch sách nguồn thịt, nguồn bánh đủ cả. Vì bò một thời bị cấm giết vì phải đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp, hai nữa là đa phần đều phải vào hợp tác cả. Thịt từ hợp tác ra có nguồn, còn trôi nổi chỉ có giết chui mổ lậu. Vì thế người bán phở cũng trở nên có giá. Họ bắt đầu có thái độ ban phát, hách dịch khi bán hàng như những mậu dịch viên quốc doanh. Xã hội bắt đầu phân hóa và để đến bây giờ, thái độ bán hàng lấc cấc đã trở thành một nét văn hóa suy tàn của nghề dịch vụ đất Hà thành. Xã hội thế kỷ 21 đã hơn 10 năm, nhưng tàn dư còn nặng nề đến đau lòng cho khách phương xa đến với Hà Nội, chịu đựng sự vô lối, thiếu văn hóa của những lối kinh doanh kẻ cả, thiếu tôn trọng khách hàng.

 

                                          ( Một cửa hàng khắc gỗ, đẽo quay trên phố Tô Tịch)

   Hồi đó, mỗi ngã tư, góc phố đều có những hàng bơm vá sửa chữa xe đạp. Nó thịnh hành vì cái nghề đơn giản mà thô sơ, vốn liếng không bao nhiêu. Ai thất nghiệp, về hưu hay làm thêm đều có thể làm được cả. Chuyện các quân nhân ra bơm vá thường đến nỗi thành câu:

                                                      Đầu đường đại tá bơm xe
                                                Cuối đường thiếu tá bán chè đỗ đen


   Cuộc sống thiếu khó nên chuyện phát sinh các thứ nghề cũng là thường. Có một thứ nghề cho đến bây giờ đã khai tử, đó là nghề bơm mực bút bi. Ngày đó bút hết mực không vứt đi, họ mang ra phố bơm lại. Chỉ cần bộ đồ nghề nhỏ với cái bàn con ngồi vỉa hè là kiếm sống được rồi:


   Hồi tôi mới học đại học, cái bút vẽ kỹ thuật với mực tiêu chuẩn hiệu Rhoting của Đức tư bản giãy chết bán đắt kinh khủng. Hai chỉ một cái bút và một lọ mực bằng 1/6 cái bút đó. Mà tối thiểu thì một sinh viên kiến trúc phải có ba cái bút khác nét nhau. Nên bọn tôi phải lên phố Lò Đúc mua bút nội và mực nội cho rẻ. Bút dùng vẽ được vài lần thì nét bắt đầu to ra và bực nhất là bị nhỏ mực. Vẽ kỹ thuật đòi hỏi sự thể hiện các nét vẽ khác nhau mà bút nội thì sau vài lần dùng, bút nào cũng nét như nhau cả. Nên thành ra lại rèn được sự khéo léo trong khi vẽ, ấn bút thành nghệ thuật. Một cái bút có thể vẽ nhiều nét, chả khác gì các cụ xưa dùng Springle để vẽ (là 1 dụng cụ để chấm mực khi vẽ, tương tự bút bụng chửa hay xe tăng thời trước của học sinh tiểu học). Mực thì thực chất mực nội là họ mài mực tàu ra rồi họ lọc cặn đi thôi, đóng lọ bán. Tuần đầu không sao, nhưng sau đó thì lọ mực bắt đầu bốc mùi như mùi chuột chết vậy. Bọn tôi đi học thêm tiếng Anh buổi tối, hay dùng bút đó chép bài luôn và cũng để buồn thì vẽ bậy. Mùi mực bay ra làm các bạn xung quanh kêu như cháy đồi, thi nhau cúi xuống bàn xem có con chuột chết nào lơ đễnh mà chết không đúng chỗ không !!! Bọn tôi thì điềm nhiên kệ, vì quen với mùi rồi :))

   Hà Nội thời đó lưu truyền câu ca:

                             Một yêu anh có sen - ko (đồng hồ Seiko- Nhật)
                             Hai yêu anh có Pơ-giô cá vàng (xe đạp Peugeot màu đồng)
                             Ba yêu nhà cửa đàng hoàng
                             Bốn yêu hộ khẩu rõ ràng Thủ đô
                             Năm yêu không có bà bô
                             Sáu yêu Văn Điển ông bô sắp về (là nghĩa trang)
                             Bảy yêu anh có tay nghề
                             Tám yêu sớm tối đi về có nhau
                             Chín yêu gạo trắng phau phau
                             Mười yêu nhiều thịt ít rau hàng ngày.

   Bài này còn nhiều dị bản khác nhau, nhưng chỉ nêu một bản để thấy cái tiêu chí thời đó. Có đồng hồ Sei-ko của bọn giãy chết này:

   Nếu không, cũng phải là của Liên Xô anh em là đồng hồ Poljot:

   Còn xe đạp thì đây:


   Và đây, chính hiệu Lơ-giô con cá vàng:


   Thời đó, xe đạp có đủ biển số, hộp đựng đồ sửa chữa, bơm xe, đi-a-măng cơ năng chuyển thành điện năng chiếu sáng để đi đêm, cả chuông nữa, kêu rất oách xà loách. Như cái xe favorit dưới đây là một điển hình:


   Những thứ trên là sang trọng để thành đẳng cấp rồi đấy. Còn ông nào đi tán gái mà trang bị tận răng như trên kèm với bút máy kim tinh cài ngực áo sơ mi trắng lốp, dép nhựa Tiền Phong (tiếng lóng còn gọi là ), mũ cối Tàu lòng vàng (lóng gọi là ổi tàu) thì như bây giờ ngực gài bút Montblanc, chân đi giày Luis-Vuiton, đầu đội mũ CK vậy.


                                                             (Dép nhựa Tiền Phong đây)


                                           (Bút máy Kim tinh là cái có nắp vàng, thân nâu sẫm)


                                                                 (Mũ cối Tàu, lòng vàng)

   Nếu không, có đôi đúc tàu, tức là dép cao su (dép râu) của Tàu thì còn oách nữa:


   Cán bộ thì lủng lẳng cái đài bán dẫn đeo hông hay cặp sau yên xe, đi đâu cũng oang oang như loa phường bây giờ cũng đủ làm nhân dân té vãi:


   .........

   Giờ thì Hà Nội khác rồi. Những vật dụng, hình ảnh xa xưa đã lùi vào dĩ vãng. Còn nhiều điều muốn kể, những điều tiếp diễn qua các thời kỳ bao cấp đến cuối thời bao cấp, nhưng có lẽ, để hẹn đến entry sau. Tặng các bạn, tặng bạn của tôi những hình ảnh về một thời ở nơi mà tôi đã sinh ra và lớn lên. Hẹn ở entry sau.

22 nhận xét:


  1. Giờ em mới hân hạnh được biết mặt mấy anh tem phiếu này đấy, lâu nay chỉ toàn nghe kể ... Một số loại tem trông từa tựa tờ tiền giấy của mình bây giờ nhỉ ... Thích 4 câu lục bát cực chuẩn - mà thích nhất là câu cuối :

    Tôn Đản chợ của vua quan
    Nhà Thờ chợ của trung gian nịnh thần.
    Đồng Xuân chợ của thương nhân.
    Vỉa hè chợ của nhân dân anh hùng !!!

    Một thời đã xa nhưng vẫn để lại nhiều hệ lụy và tiếc hơn là nó đã làm mất dần đi vẻ thanh lịch cổ kính của Hà nội trong từng lời ăn tiếng nói, cử chỉ nết na, nét duyên dáng của đi đứng ... mà sách vở xưa thường kể . Hình như cả trong cung cách phục vụ nơi hàng quán nữa. Có vẻ như cái kiểu không cần khách hàng đã ăn sâu thành nếp rồi. Ở chổ em ấy à, khách hàng không phải là Thượng Đế - mà là Vợ Thượng Đế luôn ấy chứ... :))

    Bài viết và hình ảnh phong phú, công phu như một công trình nghiên cứu nho nhỏ. Thụy đề nghị Phong Ca nên lưu giữ tất cả những bài về Hà Nội của mình, sau này nhiều nhiều thì gom lại thành một quyển " Hà Nội Xưa và nay " chẳng hạn - có lẽ sẽ thành Best seller không chừng ... Hehe ...

    P/S : Thanks !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Thank về lời bình của Thụy.

      Trước anh tưởng các thành phố lớn đều có chế độ này cả, hóa ra không phải, hầu như chỉ có ở 1 số nơi của miền Bắc. Anh sẽ viết tiếp phần 2 của bài này nữa. Đọc nhé.

      Ý về các bài Hà Nội, có nhẽ hay. Nếu quy được ra như kiểu lương khô để dành nhể :)), khà khà... Lúc nào đói kém mà bán được là sống qua ngày ok, hả :)), khà khà khà...

      Xóa
    2. Giờ em mới nhìn kỹ, Thịt : 2kg/tháng + cá : 1,5Kg/tháng = Cả gia đình ? :P

      Xóa
    3. Như tiêu chuẩn của bố anh là thịt 1,5kg/tháng, mẹ anh chỉ có 0,4kg tháng thôi, cộng lại thì chưa được 2kg/tháng. Đó là hồi mới thống nhất. Sau thì lên bìa C1, được 2kg/tháng. Ngoài ra thì có cá, cũng 1,5kg/tháng nữa. Đấy. Lương thì kịch khung có 160 đồng của cán bộ bìa C. Bởi vì lên nữa thì theo xếp hạng chuyên viên, khi ông già về hưu là chuyên viên 9, hưởng lương ngang thứ trưởng, nhưng chức vụ thì kịch khung, không thể lên thứ trưởng được.

      Bây giờ nhậu 1 bữa cá hồ Tây câu lên, con chép cũng phải tầm 2kg đến trên 2kg là nhậu tơi bời, trong khi thời đó, cả tháng cán bộ phiếu D với E là hạng nhân dân chỉ có 0,5kg/tháng thôi đấy. Hỏi sao không đói ???

      Xóa
    4. Nhân dân anh hùng chỉ được cấp 0,5kg đạm/ tháng ???

      Xóa
    5. Để đánh Mỹ và xây dựng XHCN, người ta cần sống bằng ý chí em ạ. Và bây giờ người ta vẫn nói đấy: BẰNG NIỀM TIN !!! :))

      Xóa
  2. Những cái " hồi đó" này như bức tranh mô tả tỉ mỉ một thời gian khó của đất nước, dân khổ như vậy nhưng chả mấy ai kêu ca chửi bới chế độ huynh nhỉ? Bi chừ sướng hơn nhìu mà ai cũng than.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Vì hồi đó bị tuyên truyền mị dân quá, và người ta cũng đâu có biết nhiều về thông tin. Thêm nữa, con người thời đó cũng đơn giản hiền lành hơn, vừa trải qua chiến tranh chống Mỹ, lại đối đầu biên giới Tây - Nam với bọn Căm-pốt, rồi tiếp sau là đánh chống Khựa 1979 ở Lạng Sơn, kéo đến tận 1984 chống lại Khựa ở biên giới Hà Giang, rồi 1988 Khựa nó đánh Trường Sa nữa. Lúc nào cũng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

      Các nguồn lực kinh tế hạn hẹp, chủ yếu phụ thuộc viện trợ. Hai nữa, chống đối có đấy, nhưng không thể như bây giờ, có internet làm phương tiện rồi. Người ta cũng bất mãn lắm, nhưng chả có cách nào cả thôi, vả lại trong bối cảnh thường trực căng thẳng với Khựa, cái đó cũng không thành sự bùng nổ như bây giờ.

      Xóa
  3. Người sinh sau đẻ muộn thật khó có thể hình dung, nếu không được nghe và thấy tận mắt.
    Và đúng như anh nói, không phải các thành phố lớn nào cũng có chế độ này.
    Chỉ là kể về kỉ niệm, nhưng đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh của thời kỳ quá độ, thời kỳ khủng hoảng và trì trệ.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đóng vai người kể chuyện mà bạn, nên cố để truyền tải lại ký ức sao cho nó sống thực. Thanks.

      Xóa
  4. Ca viết bài này tỉ mỉ, em thích Ca viết dnag5 này, đọc nghe để...mở rộng tầm nhìn chút.
    Em chưa thấy tem phiếu bao giờ, giờ mới tah61y nè.
    Trong trí nhớ của em, hồi nhỏ, nhà em bán hàng ăn, mà xếp hàng mua thịt. Xếp từ tờ mờ, vậy mà rõ ràng còn thịt, tới phiên mình con mụ mậu dịch không bán, nó lại để dành bán cho người quen của nó. Bà cô Út em ( lúc đó khoảng mười mấy tuổi thôi ), đã bay cả vào ô thịt, lôi con mụ đó ra tẩn cho một trận. rồi bị quản lý chợ bắt . SAu đó, thì hễ thấy bà cô em là mụ ấy bán thịt liền, không có kiểu chảnh đó nữa, vì cô em bảo, đụng đâu đánh đó, bước ra khỏi lồng chợ là chết với bả. giang hồ gúm Ca nhỉ ?
    Cái thời gì mà khổ quá Ca hén.
    Đọc bài cứ y như được xem một tư liệu quý á. Bấm nút like nha Ca. ! hì hì

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Vẫn còn phần tiếp theo đấy :)), khà khà...

      Cô em dữ vậy nên nó sợ. Chứ ngày đó, anh thì còn nhỏ, mới có 10 tuổi đầu, tức cũng không có làm gì được. Còn mẹ anh xuất thân giáo viên nên cũng lành, cũng đâu có dám to tiếng nên chịu vậy. Nên giờ, cứ bị ai lên mặt là anh lại không chịu được :))))))), tệ nhỉ :))))))))

      Xóa
    2. Bây giờ anh dzữ bù. Dzữ dễ sợ lun . ( Mà hổng biết có ai sợ hông hén ?! ) hì hì
      Đúng rùi, vì gia đình Ca xếp vào thành phần trí thức, nên làm gì cũng cẩn trọng là đúng rùi, sợ ảnh hưởng danh tiếng. còn nhà em dân chợ búa mà, có làm ông bà gì đâu mà sợ người ta xiên xỏ chứ.
      Úp nữa đi Ca. Ca hay chơi ngắt ngang lắm nè. Hôm bữa viết cái truyện hay bà cố lun, tự dưng...cắt, hổng viết nữa.

      Xóa
    3. Không muốn bị bắt nạt thì phải chống lại thôi em :))

      Không phải là giữ danh giữ tiếng, mà là giáo dục ngày trước của các cụ nó vậy, thành ra không thể làm dữ với thiên hạ thôi. Nhưng rồi vì cuộc sống, con người ta cũng phải thay đổi để có sự thích nghi em à.

      Xóa
  5. Nhìn loạt ảnh tem phiếu, mình nhớ khi anh trai mình học đại học lần 1, anh ấy học Đại học Tổng hợp. Lúc về nhà có bà đến chơi hỏi mẹ mình là con trai học trường nào. Mẹ nói học trường Tổng hợp. Bà ấy tấm tắc:
    - Học tổng hợp thì tha hồ giàu rồi. (vì bà ấy tưởng học xong thì đi bán hàng ở bách hóa tổng hợp).:D

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Anh trai bạn có lĩnh học bổng với 13kg gạo/tháng ko :)

      Xóa
    2. Mình nhớ không nhầm thì anh ấy được lĩnh 15kg gạo và 2 kg bột mì vào hai năm cuối khi không ăn cơm tập thể mà lấy gạo về. :)
      Còn học bổng thì được ở loại thứ hai (không nhớ là bao nhiêu tiền), nhưng anh ấy còn cho mình nữa đó.Có vẻ như anh trai mình học cùng thời với bạn.

      Xóa
    3. À, còn dép nhựa tiền phong cũng rất quý.

      Xóa
    4. Có dép nhựa Tiền Phong thì như bây giờ đi giày Ý đấy, kkk

      Xóa
  6. Đây là chiếc xe đạp của mình cần bán : http://phoxe.phomuaban.vn/index.php?mod=detail&cat=810&scat=980&storeid=70358&id=664803&p=2&d=1417366522&mt=0

    Trả lờiXóa
  7. Hì hì, bạn nhắc lại làm tay Ct nổi cả da gà. Nhớ lại thời đó khiếp thật. Có lẽ bạn quen từ lọt lòng chứ Ct thì chuyển từ thời sung túc sang khốn khó nên không có quen. Ghét nhất là có ông chuyên đi ngang cứ hít hít cái mũi rồi tâu lại là nhà ông A bà B có ăn sướng, đâu biết là họ chiên dầu mấy cọng rau. Úi cha ơi!
    Thực tế giờ tụi Thái nó nhìn mình cũng gần giống như bạn nhìn mấy người Thiểu vậy.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hà Nội mà chặt gà chặt vịt là có chuyện ngay bác ạ. Cán bộ phường sẽ đến hỏi ngay là lấy đâu ra tiền mua? Ưu việt đã được xây dựng bởi cái móng như vậy đấy bác :))

      Xóa