Đây là bài viết đã lâu, đăng lại như 1 sự nhắc nhở về 1 nơi đã thành 1 tâm thế ...
----------------
Tàu điện leng keng !
Tàu điện Hà Nội, cũng như bao nhiêu những vụn vặt ký ức khác về 1 thời bao cấp, đã cùng với tôi như 1 sự đồng hành của sự lớn lên. Ngày đó, tàu điện chỉ chạy dọc theo các tuyến phố chính của trục đường mà không rẽ ngang xương cá, có lẽ bởi tính bất tiện của sự đòi hỏi phải ôm cua rộng của các toa tàu, đó là tôi đoán thế.
Dọc đường Thụy Khuê, đường ray tàu điện nối 1 đầu lên Bưởi, vùng không gian văn hóa của Hà Nội với các làng nghề, các làng hoa quanh hồ Tây, hồ Tây sương khói của những sáng mùa đông, mà qua ô cửa rộng của trường cấp 3 nơi tôi học, nhìn ra hồ, tôi bỗng có 1 ngày hiểu được, tại sao tên gọi xưa cũ của hồ Tây là hồ Dâm Đàm.
Sương hồ mù mịt và trắng xóa. Ngày đó, đi trên đường Cổ Ngư - Thanh Niên, nhìn qua bên kia hồ, mạn Yên Thái, Trích Sài thì chỉ thấy mờ mờ xanh của làng xóm. Các làng Tứ Liên trồng quất, làng Nhật Tân trồng đào, làng Phú Thượng trồng hoa, làng Nghi Tàm cây cảnh và cá chọi, cá cảnh, hồ Quảng Bá với những rặng ổi xanh trĩu ... vẫn còn thuộc huyện Từ Liêm. Hết làng Yên Phụ bên hồ, đã là địa giới giáp ranh của nội thành và ngoại đô rồi.
Đường tàu điện theo đường Thụy Khuê, qua cổng trường cấp 3 của tôi, nơi tôi và lũ bạn thường trốn học bùng tiết chính trị đầu tuần, ra cổng trường lót dạ chén trà chát và điếu thuốc Du Lịch, để đón sẵn tàu qua mà nhảy lên, theo đường Quán Thánh tót thẳng xuống chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, hoặc đầu Gầm Cầu - Hàng Lược là bắt đầu lượn phố.
Cái sự nhảy tàu này, nhảy tàu trốn vé, dù bây giờ tôi cũng chẳng nhớ chính xác giá vé nữa, nhưng cũng đâu quãng chén trà mạn hoặc hơn chút xíu, thì cũng là 1 nghệ thuật. Nhảy bất kỳ lúc nào, cả lên lẫn xuống, bất chấp tốc độ, tuy không thể so sánh như Tám Bính, Năm Sài Gòn trong Bỉ vỏ nổi tiếng của cụ Nguyên Hồng, nhưng cũng đã là điệu nghệ lắm. Để mà không trầy trụa tay chân, sứt gối rách quần, hay tệ hơn, cực kỳ kém may mắn, là ngã vào gầm tàu, ngồi nóc tủ hít hương hoa, thì cũng fải thực tập nhiều, từ cách lấy đà, đặt chân, nương theo tốc độ mà thả người, rơi theo mặt đường.....
Tàu điện theo xí nghiệp xe điện đặt ở phố Thụy Khuê, chạy theo tuyến Bờ Hồ, tập kết tại điểm bến tàu điện đường Đinh Tiên Hoàng, cách không xa nhà Thủy Tạ và đền Ngọc Sơn là mấy. Từ bến đó, tỏa xuống các cửa ô ngoại thành, xuống chợ Mơ, Minh Khai, Mai Động qua Hàng Bài, phố Huế, xuống Cầu Giấy, Hà Đông qua Hàng Bông, Hàng Bột ..... Ngày đó, bãi Cát Linh nối Giảng Võ như 1 sự cam kết ngầm về vùng mới mở rộng của Hà Nội vậy, được đánh dấu bởi nhà máy gạch Đại La, dấu tích bây giờ là cái cột ống khói được giữ lại bởi tính cân bằng, chấn trạch phong thủy của khách sạn Horison, được xây dựng trên nền nhà máy cũ.
Chiếc tàu điện cũ kỹ với '' Nhớ tiếng leng keng tàu sớm khuya ...'' đã đi vào câu hát như 1 chứng nhân lịch sử của 1 thời Hà Nội khó khăn và vất vả, nhưng sự thanh bình, nét tĩnh lặng trong tiếng leng keng đó của Hà Nội thời bấy giờ, thì bây giờ không thể lấy sự hào nhoáng, bóng bẩy của các cao ốc kính coong ngời rạng, với các phương tiện di chuyển hiện đại chen nhích trên phố, để mà thay thế cho được.
Những gánh gồng như thế theo miệt mưu sinh tỏa đi các phố hè Hà Nội, cũng đều bắt đầu từ đâu đó ngoại ô, theo tiếng leng keng mà bắt đầu cũng như khi chiều tà nắng tắt, tất bật xếp thúng chồng gánh, đứng gọn nơi hè đường mà chờ tàu, kết thúc 1 ngày rong ruổi kiếm ăn.
Giàu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố... Chả biết từ bao giờ, nhưng câu nói đó quả là đúng, đúng với nhiều số phận đã gắn bó với vỉa hè Hà Nội từ những thúng mủng trên những chuyến tàu leng keng khuya sớm kia. Cũng chẳng phải rằng bây giờ, khi tàu điện đã đi vào dĩ vãng như là 1 nhắc nhớ không hẳn là nuối tiếc, nhưng gời gợi 1 sự cảm thán nao nao, thì những nhọc nhằn mưu sinh kia đã hẳn là giảm bớt. Vỉa hè Hà Nội, xe bus không còn chỗ cho những gánh gồng thúng mủng nữa, mà đã được lên đời từ nhiều thứ phương tiện khác.
Tâm khảm tôi, trong cái trôi nổi những đan xen ký ức, tiếng tàu điện như không bao giờ quên. Những trật bánh xe đạp, thậm chí xe máy vào làn rãnh ray tàu, ngã bổ ngang bổ ngửa, thậm chí những đáng tiếc phận người không may dưới làn bánh sắt, cũng chẳng thể nào quên. Những buổi mua sách hiệu Quốc văn, đón tàu không chờ được để về đến nhà mới mở sách, cứ dựa ghế mở ào ra đọc, ngốn ngấu, nghiền ngẫm mà tàu qua Cát Linh lúc nào không hay, đành thêm tiền cho quãng quá bến, mà xuống thẳng Cầu Giấy, rồi cuốc bộ về nhà.
Lại thấy buồn cho một Hà Tây đã mất, bài hát rất hay này còn được nghe nữa không: "Hà Tây... cửa ngõ thủ đô, cô gái Suối Hai, chàng trai Cầu Giẽ..."
Những xúc tào phớ mỏng được ông chủ gánh xúc từng miếng bằng mảnh vỏ trai, cứ ánh lên thứ ánh ngũ sắc nhấp nhoáng chợt tan chợt biến dưới ánh nắng hè, lấp loáng trong sự sóng sánh của nước đường trong vắt và màu ngà sữa của thức quà thanh, đệm tiếng lanh canh trong trẻo của vài viên đá nhỏ. - like so much:-)
những mẩu ký ức về nó cứ vơi nổi, nổi vơi trong tôi, như 1 sự nhắc nhớ
về 1 Hà Nội ngày còn khốn khó nhưng thanh bình." Đọc đoạn này của TP, mình chợt nhớ tới hôm tết rồi, cậu em út chở 2 mẹ con mình đi chơi phố phường HN, vắng vẻ, tĩnh lặng hơn nhiều ngày thường, em mình nói với con mình một câu: HN ngày xưa vắng, thanh bình gần như thế này cháu ạ? (con mình sinh ra ở nơi khác nhưng về thăm nơi ngoại sinh sống), nghe câu này, quả thật mình cũng cảm thấy tiếc nuối một cái gì đó trong kí ức của tuổi thơ. Hồi cấp 1, mình đi sơ tán ở Cầu giấy, học ở trường Yên Hòa, nhưng không ở đó mà vẫn ở nhà trong nội thành nên hàng ngày, đi học bằng xe Con thỏ của LX cũ, nhưng hôm nào được đi tầu điện ra Cầu Giấy thì thích lắm, qua đường Nguyễn Thái Học, qua chùa Voi Phục là gần đến bến cuối, xuống đi bộ một quãng là đến trường, hôm nào trốn được vé thì sướng âm ỉ. Cám ơn bài viết này của TP nha!